Thứ bảy, 27/04/2024 | 14:24

Thứ bảy, 27/04/2024 | 14:24

Tin tức

Cập nhật 02:33 ngày 24/09/2018

Hà Nam: Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sinh học góp phần phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh

Sau 10 năm thực hiện Chỉ thị 50 - CT/TW, ngày 4 tháng 3 năm 2005 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa IX về “Đẩy mạnh phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”đã đạt được những kết quả bước đầu quan trọng. Hệ thống văn bản pháp luật, cơ chế chính sách phát triển công nghệ sinh học từng bước được hoàn thiện. Cơ sở vật chất kỹ thuật và nguồn nhân lực về công nghệ sinh học được quan tâm đầu tư. Việc ứng dụng công nghệ sinh học đã chọn tạo được nhiều giống cây năng suất cao, chất lượng tốt, có khả năng kháng bệnh, chống chịu được các điều kiện thời tiết bất lợi. Việc chẩn đoán và theo dõi các bệnh không truyền nhiễm bằng công nghệ gen đã có những bước tiến nhảy vọt; đã nghiên cứu và sản xuất thành công 11/12 loại vắc xin trong Chương trình tiêm chủng mở rộng quốc gia. Các sản phẩm công nghệ sinh học cũng đã giúp các cơ quan chức năng tăng cường hiệu quả đấu tranh, phòng chống tội phạm và các tệ nạn xã hội...
Mô hình nấm ăn, nấm dược liệu đã đem lại hiệu quả kinh tế cao
Trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp: Công nghệ sinh học tạo ra được các giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao, tạo ra được các loại phân sinh học, các chất kích thích sinh trưởng, các chế phẩm vi sinh bảo vệ cây trồng, tạo ra được các thức ăn giàu chất dinh dưỡng, các loại thuốc thú y, các loại vắc xin phục vụ chăn nuôi gia súc, gia cầm, thuỷ sản. Ngoài ra, công nghệ sinh học còn được ứng dụng trong bảo quản và chế biến nông sản, phát triển, duy trì và lưu giữ các nguồn gen quý hiếm, cải tạo giống cây con. Công nghệ sinh học cũng góp phần không nhỏ vào lĩnh vực thuỷ sản, tạo ra các giống sạch bệnh và tạo ra công nghệ xử lý môi trường nuôi, công nghệ sản xuất thức ăn đơn bào cho giai đoạn ấu trùng của công nghệ sản xuất giống. Kết quả này được coi là khâu đột phá cực kỳ quan trọng, có tính quyết định cho công nghệ nuôi trồng thuỷ sản xuất khẩu.
 Trong y tế: Kết quả nổi bật của công nghệ sinh học là phát triển công nghệ sản xuất vắc xin phục vụ các chương trình tiêm chủng mở rộng, góp phần thanh toán bệnh bại liệt. Gần đây, ngành y tế đã nghiên cứu, làm chủ công nghệ tạo ra quy trình sản xuất vắc xin viêm gan B thế hệ mới, các công nghệ nhân gen, giải mã gen và đưa vào ứng dụng trong lĩnh vực quốc phòng, phục vụ cho việc xác định danh tính hài cốt liệt sỹ, nhận dạng huyết thống, kỹ thuật hình sự.
Trong lĩnh vực môi trường: đã tạo ra công nghệ xử lý chất thải lỏng hữu cơ, xử lý phân gia súc, ô nhiễm dầu mỏ… và đã được ứng dụng ở nhiều cơ sở sản xuất...
Tại Hà Nam, hoạt động ứng dụng công nghệ sinh học đã đạt một số kết quả quan trọng, tập trung chủ yếu vào việc đưa một số công nghệ tiên tiến, đạt hiệu quả vào lĩnh vực trồng trọt và chăn nuôi, phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm, nuôi trồng thuỷ sản.
Trong trồng trọt, Hà Nam đã tiếp thu được công nghệ sản xuất hạt giống lai F1, sản lượng giống hằng năm đáp ứng 50% nhu cầu toàn tỉnh, triển khai trồng khảo nghiệm các giống lúa lai, ngô lai, đậu tương, lạc có năng suất chất lượng cao bổ sung vào cơ cấu giống, cơ cấu mùa vụ của tỉnh. Tỷ lệ diện tích lúa lai hàng năm chiếm từ 30 - 40% tổng diện tích gieo cấy, năng suất lúa đạt 11 tấn/ha, góp phần đảm bảo an ninh lương thực. Hà Nam bước đầu triển khai thực hiện thành công dự án hoa ứng dụng công nghệ cao, mở ra một tiềm năng mới trong nông dân, nông thôn Hà Nam, đặc biệt là ở những địa phương có điều kiện phát triển nghề trồng hoa. Tiêu biểu như một số đề tài, dự án:  “Ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ xây dựng mô hình sản xuất một số chủng loại hoa có giá trị tại Hà Nam”; “Xây dựng mô hình phát triển cây rau sắng tại vùng đồi núi huyện Kim Bảng và Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam”; Mô hình sản xuất, chế biến, tiêu thụ nấm ăn, nấm dược liệu theo hướng công nghiệp, phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Đến nay, Công ty TNHH Mây tre Xuất khẩu Ngọc Động (đơn vị chủ trì thực hiện dự án) đã mở rộng đào tạo, hướng dẫn kỹ thuật và bao tiêu sản phẩm các loại nấm đối với trên 600 hộ nông dân với gần 2.000 lao động biết nuôi trồng các loại nấm ăn, nấm dược liệu, góp phần tăng thu nhập bình quân lên 60 - 70 triệu đồng mỗi hộ trong một năm...
Trong chăn nuôi, mô hình chăn nuôi lợn trên nền đệm lót sinh học đã đem lại hiệu quả kinh tế cao, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, giảm chi phí chăn nuôi, hạn chế dịch bệnh...  Mô hình tổ chức sản xuất giống tiêu chuẩn cho gà móng Tiên Phong (Duy Tiên) sinh sản để bảo vệ nguồn gen quý; ứng dụng một số giải pháp khoa học công nghệ nhằm nâng cao tỷ lệ sinh bê cái bằng tinh phân định giới tính; sử dụng kỹ thuật tách rắn - lỏng trong xử lý chất thải chăn nuôi; bảo tồn giống cá trối quý hiếm của tỉnh; chương trình Sind hoá đàn bò, cải tạo đàn dê địa phương bằng dê đực Bách Thảo, tiến hành nạc hoá đàn lợn, nuôi ngan Pháp… bằng nhiều mô hình mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Công tác nuôi trồng thuỷ sản: đã tiến hành cho cá chim trắng, cá trắm đen đẻ nhân tạo, nhân nhanh giống cá chép lai 3 máu, nuôi tôm càng xanh, cá rô phi đơn tính, cá trê lai mang lại hiệu quả kinh tế cao, cải thiện đáng kể được mức sống của người chăn nuôi.
Lĩnh vực Y học: Xây dựng thành công và duy trì Mô hình cấp cứu trước bệnh viện; Hoàn thành đề tài nghiên cứu về phòng chống thiếu máu thiếu sắt, qua đó đã góp phần thiết thực giảm tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt ở bà mẹ và trẻ em, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi năm 2015 còn 13% (vượt chỉ tiêu Nghị quyết đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII đề ra).
Trong lĩnh vực bảo vệ môi trường: Đã ứng dụng công nghệ Biogas xử lý chất thải chăn nuôi và tạo nguồn khí đốt, ứng dụng công nghệ vi sinh trong việc xử lý nước thải tại Bệnh viện đa khoa tỉnh...
Mặc dù bước đầu đạt được một số kết quả khá tích cực, tuy nhiên, việc ứng dụng công nghệ sinh học trên địa bàn tỉnh vẫn chưa đáp ứng với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.  Nhân lực nghiên cứu, phát triển công nghệ, quản lý và sản xuất kinh doanh công nghệ sinh học còn nhiều hạn chế… Nhiều mô hình ứng dụng mới chỉ dừng ở mức thử nghiệm, chậm nhân ra diện rộng trong sản xuất và đời sống. Một số công nghệ nhân giống cây, con truyền thống có giá trị kinh tế cao được đề xuất, nhưng chậm đưa vào sản xuất. Kinh phí cho áp dụng công nghệ sinh học chưa được đầu tư thoả đáng... Đội ngũ cán bộ chuyên môn về công nghệ sinh học còn thiếu về số lượng, hạn chế về chất lượng…
Để công nghệ sinh học thật sự trở thành một trong những động lực quan trọng nhất trong sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội của Hà Nam, cần có sự quan tâm đầu tư thoả đáng của các cấp, các ngành đến lĩnh vực này và cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ chủ yếu sau: 
- Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật, tạo khuôn khổ pháp lý thuận lợi theo cơ chế thị trường để khuyến khích phát triển công nghệ, công nghệ sinh học, hỗ trợ hiệu quả vận hành thị trường công nghệ sinh học, đặc biệt chú trọng phát huy vai trò chủ lực của doanh nghiệp. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu mở về công nghệ sinh học. Khuyến khích sử dụng các sản phẩm công nghệ sinh học có thương hiệu Việt Nam. Có chính sách hỗ trợ đối với các dự án nghiên cứu, ứng dụng sản xuất thử nghiệm về công nghệ sinh học.
- Phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học phải theo cơ chế thị trường. Đầu tư phát triển công nghiệp sinh học là một nhiệm vụ ưu tiên trong phát triển kinh tế, xã hội, là giải pháp quan trọng để phát triển một nền kinh tế xanh, bền vững. Đẩy mạnh phát triển ứng dụng công nghệ sinh học trong lĩnh vực nông nghiệp. Ưu tiên chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới. Khuyến khích phát triển thị trường sản phẩm công nghệ sinh học.
- Chú trọng đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học theo cơ chế thị trường. Hiện đại hóa và đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính đối với hệ thống các phòng thí nghiệm, các trung tâm kiểm định nhằm đưa nhanh, có hiệu quả các tiến bộ khoa học kỹ thuật về công nghệ sinh học vào sản xuất và đời sống.
-  Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ sinh học phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới; xây dựng các chương trình phát triển nông nghiệp hiệu quả dựa vào công nghệ sinh học để thích ứng với biến đổi khí hậu; chú trọng bảo tồn các nguồn gen quý; tạo các giống cây trồng vật nuôi mới, có năng suất chất lượng, hiệu quả kinh tế cao, có khả năng chống chịu tốt với biến đổi khí hậu. Sớm đưa các quy trình công nghệ tiên tiến vào trồng trọt chăn nuôi, quản lý rừng, khai thác và nuôi trồng, bảo quản và chế biến nông, lâm, thủy sản. Tập trung xây dựng một số sản phẩm có thương hiệu.
- Đẩy mạnh nghiên cứu và áp dụng nghiêm  ngặt, các quy định về an toàn sinh học. Chú trọng đẩy mạnh ứng dụng công nghệ sinh học trong công tác an toàn thực phẩm bảo đảm sức khỏe và đời sống của nhân dân. Nghiên cứu và ứng dụng công nghệ gen, công nghệ tế bào gốc trong chẩn đoán, giám định và điều trị các loại bệnh hiểm nghèo và trong công nghiệp thực phẩm, dược phẩm; công nghệ AND trong các hoạt động nhân đạo, dân sinh. Bảo tồn và phát triển các vùng dược liệu.
- Tăng cường ứng dụng và chuyển giao các giải pháp công nghệ sinh học nhằm góp phần tạo ra một nền sản xuất xanh, sạch; xử lý ô nhiễm, khắc phục suy thoái và sự cố môi trường; khuyến khích sản xuất năng lượng mới, năng lượng sạch, có khả năng tái tạo từ phế liệu, phế thải, thực vật và thân thiện với môi trường để thay thế một phần các nhiên liệu hóa thạch đang dần cạn kiệt./.
Thoe Cổng thông tin điện tử tỉnh Hà Nam
Tổng số lượt truy cập :
  • 1
  • 0
  • 6
  • 7
  • 5
  • 1
  • 9
  • 6
lên đầu trang