Chủ nhật, 22/12/2024 | 00:05
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với các địa phương đã tổ chức thanh tra đột xuất tại 10.837 cơ sở sản xuất kinh doanh nông lâm thủy sản, vật tư nông nghiệp trong cả nước, đã phát hiện 854 cơ sở vi phạm (chiếm 7,88%) trong số các cơ sở kiểm tra.
Kết quả của dự án đã bổ sung thêm công nghệ mới, tận dụng nguồn nguyên liệu sẵn có ở địa phương để sản xuất thức ăn cho cá chình, góp phần giảm giá thành, nâng cao hiệu quả kinh tế, thúc đẩy nghề nuôi cá chình phát triển theo hướng bền vững.
Hiện, có rất nhiều chế phẩm sinh học dùng trong NTTS được thương mại hóa và bày bán trên thị trường.
Đối với ngành nuôi trồng thủy sản, thức ăn là nhân tố đóng vai trò chủ lực và chiếm khoảng 60% tổng chi phí đầu tư nuôi thủy sản, và chất lượng thức ăn có ý nghĩa quan trọng tác động đến hiệu quả nuôi tôm, cá.
Trung tâm Công nghệ thức ăn và sau thu hoạch thủy sản thuộc Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản II, đã nghiên cứu, sản xuất thành công thức ăn công nghiệp kích thích cua lột xác, với hiệu suất lột vỏ lên đến 87,5% và tỷ lệ lột vỏ đồng loạt đạt gần 43% sau 20 ngày nuôi
Nghiên cứu được thực hiện với mục đích xác định chính xác tên loài thủy sản được sử dụng trong các sản phẩm chế biến bằng phương pháp sinh học phân tử. Trình tự các nucleotide của đoạn gen ty thể mã hóa cytochrome coxidase subunit I (COI) của 20 mẫu thuộc 10 sản phẩm chế biến từ cá thu tại các siêu thị ở Hà Nội được phân tích.
Những chú cá hồi đầu tiên của trang trại nuôi cá ngoài khơi Ocean Farm 1 đã phát triển nhanh gấp đôi so với tổ tiên hoang dã của chúng và đã được lai tạo để kháng bệnh, cũng như mang các đặc điểm khác phù hợp với đời sống nuôi nhốt.
Nhắc đến protein, chúng ta đều biết đây là thành phần then chốt đóng vai trò quan trọng trong sinh trưởng của các loài động vật thủy sản. Đây cũng là yếu tố quyết định chi phí sản xuất, hiệu quả kinh tế cho người nuôi.
Kháng kháng sinh (AMR) là mối đe dọa ngày càng tăng đối với sức khỏe cộng đồng. Hạn chế sử dụng kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản góp phần loại bỏ AMR trên toàn cầu.
Hiện nay, Công ty TNHH Sinh học Phương Nam đang cung cấp nhiều loại chế phẩm với nhiều công dụng khác nhau, đáp ứng các nhu cầu cụ thể trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản.
Công nghệ sinh học thủy sản được xem là chìa khóa cho sự phát triển bền vững của ngành nuôi trồng thủy, khai thác thủy sản và công nghệ thực phẩm.
Để tăng sử dụng thành phần thức ăn thực vật trong thức ăn thủy sản, cần nâng cao giá trị dinh dưỡng và giảm thiểu chất kháng dinh dưỡng bằng quy trình công nghệ sinh học. Lên men giá thể rắn (SSF) và enzym ngoại sinh là một trong số đó.
Vi sinh vật là những sinh vật có kích thước rất nhỏ (thường được đo bằng micromet, như virus, vi khuẩn, nấm, tảo và động vật nguyên sinh), có khả năng hấp thụ và chuyển hóa mạnh, tốc độ sinh trưởng và phát triển nhanh, năng lực thích ứng cao và dễ phát sinh đột biến. Chính vì những ưu điểm này mà vi sinh vật được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực như y sinh, thú y, nông nghiệp, thực phẩm...
Vi khuẩn Bacillus được phân bố rộng rãi trong tự nhiên và rất đa dạng, cho đến nay, đã phát hiện được hơn 200 loài khác nhau và có thể tìm thấy ở rất nhiều hệ sinh thái trong tự nhiên, từ trên cạn đến dưới nước, từ nước ngọt đến nước mặn.
Sử dụng bể nuôi phù hợp với điều kiện tại Cần Giờ, giúp chủ động cung cấp nguồn thức ăn tự nhiên cho các trại sản xuất giống thủy sản, tránh phụ thuộc mùa vụ và vùng nuôi.
Mô hình ứng dụng nuôi sinh khối Artemia trong bể composite 5m3 cho năng suất sinh khối Artemia thu hoạch là 7,8 kg. Mô hình có thể triển khai sản xuất để phục vụ nhu cầu làm thức ăn trong ương nuôi giống thủy sản và nuôi cá cảnh mà không phụ thuộc vào tính mùa vụ và vùng nuôi.
Trung tâm Quốc gia Giống hải sản Nam bộ đã xây dựng thành công quy trình nuôi và thu sinh khối vi tảo Thalassiosira sp. có chất lượng và giá trị dinh dưỡng phù hợp làm thức ăn trong sản xuất giống nhiều loại thủy sản.
Với mục đích đánh giá khả năng xử lý phosphate của vi khuẩn Bacillus subtilus phân lập từ nước thải chế biến thủy sản nhiễm mặn, 5 chủng Bacillus subtilus phân lập từ nước thải chế biến thủy sản được chọn lọc để tiến hành thí nghiệm nhằm xác định mật độ vi sinh vật; khoảng nồng độ phosphate phù hợp; hiệu quả xử lý phosphate so sánh với các chế phẩm trên thị trường trong điều kiện hiếu khí.
Diện tích nuôi trồng thủy sản ngày một tăng dẫn đến nhu cầu thức ăn thủy sản ngày càng lớn. Việc phát triển sản xuất thức ăn là cần thiết, tuy nhiên, còn nhiều rào cản để lĩnh vực này tăng tốc.
Nhờ cải thiện việc hấp thụ năng lượng và các acid amin cũng như loại bỏ tác động của các yếu tố kháng dinh dưỡng, enzyme được xem là phụ gia thức ăn giúp cải thiện năng suất của thủy sản nuôi và sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới.