Qua khảo sát cho thấy khoảng 98% hộ nuôi không dùng thức ăn viên để nuôi các loài cá mú, bớp, chẽm và cá hồng. Có khoảng 20% số hộ nuôi có sử dụng thức ăn viên công nghiệp (INVE) để nuôi cá lồng bè trong giai đoạn cá < 1 tháng nuôi đầu tiên, sau đó chuyển sang cho ăn cá tạp. Đối với các hộ nuôi cá chim thì có 50% số hộ sử dụng thức ăn viên hoàn toàn (UP, Grobest, Thăng Long, CP...), còn khoảng 50% số hộ sử dụng phối trộn giữa cá tạp xay với thức ăn viên công nghiệp để nuôi cá chim vây vàng.
Trong quá trình nuôi các yếu tố môi trường nước nuôi như: Nhiệt độ, pH, độ mặn, NH3, oxy hòa tan, NO2- có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của cá. Tuy nhiên, theo kết quả điều tra có 100% hộ nuôi trả lời không theo dõi hoặc định kỳ đo đạc các chỉ tiêu về môi trường nước nuôi. Tất cả các hộ nuôi đều sử dụng kinh nghiệm nuôi, nhận biết về sự thay đổi môi trường bằng cách nhìn vào màu nước, thời tiết và dòng chảy.
Ở Đông Nam Bộ, vùng nuôi cá lồng bè tập trung chủ yếu ở vùng cửa sông và ven đảo, các lồng nuôi thường bị nhiễm bẩn bởi phù sa, hầu hà, sun, rong tảo... làm ảnh hưởng dòng chảy của nước lưu thông qua lồng. Kết quả
điều tra ở thành phố HCM và BRVT cho thấy có từ 72,3 - 80,0% số hộ thay lưới trong khoảng thời gian dưới 1 tháng, chỉ có 20,0% đến 27,3% hộ nuôi thay lưới từ 1 đến 2 tháng, đặc biệt hai tỉnh này không có hộ nào thay lưới trên 2 tháng. Trong khi đó ở tỉnh Bình Thuận đa số các hộ nuôi (70%) vệ sinh thay lưới trong khoảng thời gian từ 1 - 2 tháng, còn lại 5% số hộ để lưới nuôi sau 2 tháng nuôi mới thay, có thể môi trường nuôi tại đảo Phú Quý tốt, nước ít bị ảnh hưởng bởi sự bám bẩn của các chất hữu cơ, phù sa, bùn.
- Vệ sinh lồng lưới: Kết quả điều tra cho thấy 100% các hộ thay lưới lồng bằng thủ công. Có 90 - 98% các hộ nuôi giặt lưới bằng máy ngay sau khi thay, chỉ có 2 - 10% giặt lưới bằng tay.
3.2.7. Thông tin phòng và trị bệnh cá nuôi
Tình hình dịch bệnh ở Đông Nam Bộ trong những năm gần đây đã gây thiệt hại lớn cho người nuôi, kết quả điều tra cho thấy cá có thể nhiễm bệnh quanh năm tuy nhiên cá thường bị bệnh vào khoảng thời gian từ tháng 4 đến tháng 10 hàng năm, tập trung cao điểm đợt tháng 5 đến tháng 8 hàng năm.
Bệnh lở loét: Cá bệnh xuất hiện nhiều vào mùa hè và nhất là vào lúc giao mùa giữa mùa khô và mùa mưa khoảng tháng 5 - tháng 8. Xử lý bệnh bằng cách tắm cá bằng thuốc Oxyteracyline cùng với tắm nước ngọt.
Bệnh ký sinh trùng: Cá bệnh thường xuất hiện và phát triển trong khoảng thời gian từ tháng 4 - tháng 9. Điều trị bằng cách tắm nước ngọt, Formol và một số hóa chất khác trong khoảng thời gian từ 5 - 15 phút. Thời gian điều trị cứ 3 - 4 ngày xử lý lặp lại 1 lần. Hiệu quả điều trị cao nhưng cá bị tái nhiễm bệnh liên tục, do môi trường nhiễm bẩn.
Bệnh cá bị mù mắt: Cá bớp bị nhiều nhất là 80 - 90% ở giai đoạn mới thả giống sau 1 tháng. Cá chẽm, cá hồng, cá chim vây vàng và cá mú thì bị rải rác trong suốt thời gian nuôi tỷ lệ cá bệnh khoảng 30%. Kết quả điều tra cho thấy có khoảng 70% các hộ trả lời xử lý cá bệnh bằng cách tắm nước ngọt + thuốc Oxyteracyline sau 3 - 4 lần, cá bị nhẹ và mới phát hiện sẽ khỏi bệnh, nhưng cá bệnh nặng thường không khỏi.
Bảng 3.2. Biện pháp phòng trị bệnh trên cá biển nuôi lồng bè khu vực Đông Nam Bộ

Bệnh xuất huyết: cả 5 đối tượng cá biển nuôi lồng bè đều bị bệnh xuất huyết trên da thường chết rải rác từ 3 - 7 con mỗi ngày, mùa vụ xuất hiện bệnh từ tháng 5 đến tháng 10, tỷ lệ nhiễm bệnh 60 - 70%. Theo khảo sát 100% các hộ nuôi chưa có biện pháp xử lý bệnh này.
Bệnh do vi rút: cá có thể nhiễm vi rút trong giai đoạn 3 tháng nuôi (cá giống) và có thể xảy ra ở tất cả các loài cá nuôi. Dấu hiệu cá đổi màu, bỏ ăn, bơi quanh mặt nước, cá không có dấu hiệu nhiễm khuẩn hay ký sinh trùng. Cá có thể chết 100%, hiện chưa có phương pháp trị.
Bệnh cá chết không rõ nguyên nhân: Kết quả điều tra có 100% số hộ nuôi cho biết mùa vụ xuất hiện cá chết trong khoảng từ tháng 6 đến tháng 9.
3.2.8. Tỷ lệ sống
Kết quả điều tra cho thấy tỷ lệ sống của các loài cá biển nuôi trong lồng bè tại BRVT đối tượng nuôi có tỷ lệ sống thấp nhất là cá mú 51,6 ± 8,3%, sau đó đến cá chim vây vàng và cá bớp có tỷ lệ sống lần lượt 63,0 ± 6,8% và 57,3 ±7,4%. Cá hồng và cá chẽm có tỷ lệ sống cao hơn tương ứng từ 62,9 ± 5,7%, cá chẽm 64,6 ± 6,3%.
Tỷ lệ sống của cá mú và cá bớp nuôi lồng bè tại Bình Thuận đạt cao nhất khu vực Đông Nam Bộ, trung bình đạt lần lượt là 58,5 ± 7,9% và 69,3 ± 10,5%. Ở TP. Hồ Chí Minh, các hộ nuôi năm 2017 chỉ nuôi cá bớp và cá nuôi có tỷ lệ sống trung bình đạt 56,6 ± 8,6%. Kết quả tỷ lệ sống của cá mú nuôi ở BRVT so với tỷ lệ sống cá mú nuôi ở đảo Nam Du - Kiên Giang đạt tương đươc nhau (45 - 50%), theo Lý Văn Khánh (2015) trong khi đó tỷ lệ sống của cá bớp ở Nam Du thì cao hơn ở khu vực Đông Nam Bộ (đạt 75,3%).
3.3. Giải pháp phát triển bền vững nghề nuôi cá biển lồng bè
Để phát triển nuôi cá biển lồng bè vùng Đông Nam Bộ theo hướng phát triển bền vững thì phải thực hiện đồng thời các giải pháp:
- Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, về chính sách, về quy hoạch, về khoa học - công nghệ và đào tạo, về nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường để giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường nước khu vực nuôi.
- Mở rộng quy hoạch nuôi cá biển lồng ở các vùng biển hở và hải đảo ở khu vực ĐNB. Đa dạng hóa loài nuôi, tiếp tục duy trì 6 loài cá đang nuôi và phát triển nuôi các đối tượng nuôi mới có giá trị kinh tế, hướng đến xuất khẩu như cá cam, cá bè vẩu, cá ngừ đại dương, cá mú lai,...
- Áp dụng công nghệ lồng HDPE chịu được sóng, gió tốt. Phát triển công nghệ sản xuất đại trà giống các loài cá biển đạt yêu cầu về chất lượng và đủ số lượng cung cấp cho người nuôi. Thay thế dần thức ăn công nghiệp, hạn chế ô nhiễm môi trường.
- Nâng cao trình độ nuôi thủy sản của người dân thông qua tập huấn đào tạo, tham quan mô hình và tiếp nhận công nghệ nuôi mới. Thành lập các tổ tự quản nghề nuôi trong cộng đồng. Gắn kết mối quan hệ giữa người sản xuất - tư thương và nhà quản lý.
- Có các chính sách ưu đãi về vốn (giảm thuế, cho vay lãi suất thấp...), khuyến khích việc mở rộng vùng nuôi ở các vùng biển đảo, lập dự án nuôi lồng bè theo mô hình mới hiện đại đạt tiêu chuẩn kinh tế kỹ thuật.
4. KẾT LUẬN
- Hình thức nuôi còn thủ công, thức ăn chủ yếu là cá tạp, thức ăn công nghiệp sử dụng còn ít. Đối tượng nuôi chủ yếu cá mú, cá hồng, cá chẽm, cá bớp và cá chim vây vàng.
- Hiện trạng nghề nuôi cá biển lồng bè ở vùng Đông Nam Bộ mang tính tự phát theo sự thành công của những hộ nuôi trước, đơn giản, quy mô nhỏ. Sự cố ô nhiễm môi trường ở khu vực nuôi thường xuyên xảy ra. Công tác cảnh báo môi trường và phòng trừ dịch bệnh còn thấp.
- Kỹ thuật nuôi còn phụ thuộc vào kinh nghiệm và tự phát, tỷ lệ tham gia đào tạo tập huấn thấp. Nguồn cá giống chủ yếu từ sản xuất nhân tạo và nhập ngoại. Tỷ lệ sống của các loài cá biển nuôi lồng ở Đông Nam Bộ dao động trong khoảng 51,6 - 69,3 %.
- Nguồn nhân lực chuyên nuôi biển còn hạn chế. Hạ tầng và dịch vụ chưa đáp ứng. Trang thiết bị phục vụ nuôi biển chưa phát triển mạnh. Thiếu vốn, chính sách đầu tư phát triển nuôi biển chưa đáp ứng yêu cầu.
-
Công tác quản lý con giống, thức ăn, thuốc hóa chất và kiểm tra chất lượng hàng hóa đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm còn hạn chế. Ý thức tự giác của người dân trong việc xả thải từ nguồn sinh hoạt và từ hoạt động nuôi còn chưa cao.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Quang Mạnh và ctv., 2014. Báo cáo tổng kết đề tài: “Nghiên cứu một số bệnh thường gặp trên một số loài cá biển nuôi tại tỉnh BR - VT. Đề xuất giải pháp phòng trị”. Đề tài cấp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
2. Lý Văn Khánh và ctv., 2015. Hiện trạng kỹ thuật của nghề nuôi cá lồng ở quần đảo Nam Du, huyện Kiên Hải, Tỉnh Kiên Giang. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, Phần B: Nông nghiệp, Thủy Sản và Công nghệ Sinh học 2015: pp 97 - 104.
3. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bà Rịa - Vũng Tàu, 2011. Báo cáo kết quả sản xuất nuôi trồng thuỷ sản năm 2011, kế hoạch năm 2012.
4. Tổng cục Thuỷ sản, 2016. Báo cáo tình hình nuôi biển, định hướng và giải pháp phát triển. Hội nghị Phát triển nuôi trồng thủy sản biển, Nha Trang ngày 11/11/2016.
5. Tổng cục Thủy sản, 2017. Báo cáo kết quả chỉ đạo điều hành 6 tháng đầu năm, nhiệm vụ trọng tâm 6 tháng cuối năm 2017. Hà Nội ngày 28/6/2017.
6. Vũ Trọng Hội, 2010. Điều tra hiện trạng kỹ thuật và đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội của nghề nuôi lồng bè một số loài cá biển có giá trị kinh tế tại Thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, Luận văn thạc sỹ Nông nghiệp, Trường Đại học Nha Trang.
Nguyễn Thị Phương Thảo, Cao Văn Hùng, Nguyễn Xuân Toản - Phân viện nghiên cứu Hải sản phía Nam