Kết quả xử lý nước thải được trình bày trong Bảng 3 cho thấy, chất lượng nước có thông số trung bình đã đạt tiêu chuẩn xả thải theo QCVN 12:2015/BTNMT (cột A). Một số giá trị lớn nhất như BOD có mẫu đạt 43 mg/l và COD 120 - 130 mg/l . Các giá trị này sẽ giảm khi qua hệ thống lọc cấp 3 khi ứng dụng tại nhà máy. Do nghiên cứu này chỉ khảo sát bể phản ứng, không thiết lập hệ thống xử lý cấp 3 nên không qua hệ thống lọc. (Bảng 3)
Kết quả về hiệu quả xử lý đối với các thông số BOD và COD được trình bày trong Bảng 4 cho thấy, hiệu suất xử lý trung bình của BOD của giá thể 3 và 5 lần lượt là 90,44 và 89,63%; hiệu suất xử lý trung bình đối với COD lần lượt là 94,74 và 94,84%. Các thông số đánh giá thống kê xác định mức độ tin cậy của dữ liệu được trình bày chi tiết trong Bảng 4.
Bảng 3. Chất lượng nước sau xử lý của bể phản ứng MBBR của GT3 và GT5
Bảng 4. Hiệu suất xử lý (%) của bể phản ứng MBBR của GT3 và GT5
Giá thể đóng vai trò quan trọng đến hiệu quả của bể phản ứng MBBR. Các yếu tố quan trọng của giá thể là diện tích bề mặt, hình dạng, kích thước, độ xốp, trọng lượng riêng, độ thấm hút,... Giá thể’ có tỷ trọng nhẹ hơn nước, có khả năng nổi, lơ lửng và chuyển động trong nước dưới tác động của lực đảo nước bởi thiết bị cấp khí hoặc cánh khuấy nên mật độ vi sinh tái tạo tăng và hiệu quả xử lý [8]. Giá thể MBBR nên có khối lượng riêng < 1g/cm3, có hình dạng hình trụ tròn với đường kính D = 10mm, chiều cao 8mm với nhiều vách ngăn, diện tích bề mặt riêng 750m
2/ m
3 có
hiệu quả cao [14]. Giá thể được làm từ polyethylene, polyvinyl alcohol gels, than hoạt tính dạng hạt, polymer dạng bọt, ... đã được khẳng định là phù hợp với bể phản ứng MBBR. Các loại giá thể sử dụng trong bể MBBR đã khả năng loại bỏ 94,96% đối với COD; 99,07% đối với BOD và 87,32% đối với TOC [3]. Zhang và ctv (2016); Deng và ctv (2016) cho rằng polymer bọt biển có khả năng loại bỏ COD là 97,52 ± 1,63% và NH4+- N là 95,3 ± 4,6%, và polymer bọt biển có độ xốp cao, có khă năng cố định cộng đồng vi sinh vật lớn, do đó có khả năng tạo thành màng sinh học lớn trên giá thể [3, 8].
Với nghiên cứu này, hiệu quả xử lý COD đạt ~ 95%, thấp hơn không nhiều so với nghiên cứu trước đây. BOD ~ 90%, cao hơn không nhiều so với nghiên cứu của Zang và Deng năm 2016. Riêng với giá thể bằng polymer xốp (giá thể 4 có diện tích bề mặt riêng rất lớn), nghiên cứu này đã thử nghiệm nhưng hiệu quả xử lý chưa cao. Nghiên cứu này sẽ tiếp tục được thực hiện trong thời gian tới.
IV. KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu, nhóm thực hiện nhiệm vụ đã chọn 2 loại giá thể phù hợp với nước thải sản xuất giấy bao bì, hiệu suất xử lý nước thải của 2 loại giá thể này đối với BOD là 90,44 - 89,63% và COD là 94,74 - 94,84%. 2 loại giá thể bao gồm:
- Giá thể màu trắng, hình trụ tròn, đưởng kính D =8mm; chiều cao H = 6mm; diện tích bề mặt riêng 950 m2/m3, khối lượng riêng 60 kg/m3, bằng nhựa HDPE, có xuất xứ Nhật Bản.
- Giá thể màu trắng, hình trụ tròn, đưởng kính D =25mm; chiều cao H = 10mm; diện tích bề mặt riêng 895 m2/m3, khối lượng riêng 60 kg/m3, bằng nhựa HDPE, có xuất xứ Nhật Bản.
Lời cảm ơn
Nghiên cứu này được hỗ trợ kinh phí từ Đề tài cấp Bộ Công Thương theo Hợp đồng số 033.19.ĐT.BO/HĐKHCN. Chúng tôi chân thành cảm ơn Bộ Công Thương đã tạo điều kiện giúp đỡ để hoàn thành tốt kết quả nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Hoàng Việt, Nguyễn Võ Châu Ngân (2017), Khảo sát thời gian lưu nước của bể MBBR để xử lý nước thải sản xuất mía đường. Tạp chí Khoa học trường Đại Học Cần Thơ. Số chuyên đề: Môi trường và Biến đổi khí hậu (1), trang 173-180.
2. Nguyễn Thị Thu Hiền (2012), Nghiên cứu ứng dụng công nghệ lọc sinh học tuần hoàn nước ương nuôi giống cá biển, Luận án Tiến sỹ Kỹ thuật Môi trường, Viện Công nghệ Môi trường, Hà Nội, Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội.
3. Adabju, S. (2013), Specific moving bed biofilm reactor for organic removal from synthetic municipal wastewater, University of Technology, Sydney Faculty of Engineering
4. APHA (2017), Standard methods for the examination of water and wastewater, American Public Health Association, USA.
5. Bassin, J.P., M. Dezotti, and G.L. Sant'Anna Jr. (2011), Nitrification of industrial and domestic saline wastewaters in moving bed biofilm reactor and sequencing batch reactor. Journal of hazardous materials. 185(1): p. 242-248.
6. Chu, L. and J. Wang (2011), Nitrogen removal using biodegradable polymers as carbon source and biofilm carriers in a moving bed biofilm reactor. Chemical Engineering Journal. 170(1): p. 220-225.
7. Dupla, M., et al., 2006, Design optimization of a self-cleaning moving-bed bioreactor for seawater denitrification. Water research. 40(2): p. 249-258.
8. Goode, C. (2010), Understanding biosolids dynamics in a moving bed biofilm reactor, Journal, Issue,p
9. Javid, A., et al. (2013), Feasibility of utilizing moving bed biofilm reactor to upgrade and retrofit municipal wastewater treatment plants. International Journal of Environmental Research. 7(4): p. 963-972.
10. Leyva-Díaz, J., et al. (2013), Comparative kinetic study between moving bed biofilm reactor-membrane bioreactor and membrane bioreactor systems and their influence on organic matter and nutrients removal. Biochemical engineering journal. 77: p. 28-40.
11. Pfeiffer, T. and R. Malone (2006), Nitrification performance of a propeller-washed bead clarifier supporting a fluidized sand biofilter in a recirculating warmwater fish system. Aquacultural engineering. 34(3): p. 311-321.
12. Piculell, M. (2016), New Dimensions of Moving Bed Biofilm Carriers: Influence of biofilm thickness and control possibilities, Department of Chemical Engineering, Lund University,
13. Shore, J.L., et al. (2012), Application of a moving bed biofilm reactor for tertiary ammonia treatment in high temperature industrial wastewater. Bioresource technology. 112: p. 51-60.
14. Zhang, X., et al. (2016), Effect of filling fraction on the performance of sponge¬based moving bed biofilm reactor. Bioresource technology. 219: p. 762-767.
1NGUYỄN THỊ THU HIỀN - Viện Công nghiệp Giấy và Xenluylô
2NGUYỄN THỊ PHƯƠNG THANH, TẠ THANH TÙNG, TRƯƠNG MINH HIẾU - Lớp ĐH6M3, Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường
(Bài đăng trên Tạp chí Khoa học và Công nghệ, số 41 tháng 4 năm 2020)