Thứ sáu, 29/03/2024 | 06:54

Thứ sáu, 29/03/2024 | 06:54

Kiến thức khoa học

Cập nhật 08:35 ngày 16/03/2023

Ứng dụng giá thể mang vi sinh vật dạng chuyển động trong xử lý nước thải sinh hoạt mô hình pilot

Nhằm chủ động nguồn cung các các loại vật liệu mang được sử dụng trong công nghệ giá thể mang màng vi sinh chuyển động (MBBR), nhóm nghiên cứu của Trường ĐH Khoa học Tự nhiên - ĐH Quốc gia Hà Nội đã thực hiện đề tài: “Nghiên cứu phát triển giá thể mang vi sinh vật dạng chuyển động ứng dụng xử lý nước thải sinh hoạt mô hình pilot”. 
Đề tài do PGS.TS. Nguyễn Mạnh Khải làm chủ nhiệm, được thực hiện từ 2017 đến năm 2019.
Mục tiêu của đề tài nhằm Xây dựng được quy trình công nghệ xử lý bậc 2 và 3 cho hệ thống xử lý nước thải sinh hoạt sử dụng kỹ thuật màng vi sinh chuyển động ổn định về mật độ bùn hoạt tính, tiêu chuẩn xử lý đạt QCVN 14:2008/BTNMT loại B. 
Bên cạnh đó, đề tài cũng đặt ra mục tiêu chế tạo được vật liệu mang vi sinh vật dưới dạng chuyển động, có diện tích bề mặt lớn, thích hợp cho xử lý nước thải chứa các chất hữu cơ và tăng hiệu quả xử lý Nitơ trong nước thải; Xây dựng được mô hình xử lý nước thải sinh hoạt quy mô pilot với công suất 0,5m3/ngày đêm, có sử dụng vật liệu mang vi sinh chuyển động quy mô phòng thí nghiệm, thử nghiệm với nước thải thực tế tại trạm xử lý Kim Liên.
Sau hơn 2 năm thực hiện, nhóm nghiên cứu đã đưa ra được quy trình sản xuất 2 loại vật liệu mang chế tạo từ xơ mướp (XM), đá rỗng thủy tinh (TT). Các vật liệu này có các đặc tính hóa lý phù hợp với tiềm năng trở thành vật liệu mang với hiệu quả cao, chi phí thấp. 
Cụ thể, vật liệu mang chế tạo từ XM có khối lượng riêng 0,026 g/cm3, thể tích rỗng 82,5% ± 3%, tổng diện tích hấp phụ bề mặt 22,52x103 m2/m3 và đơn vị diện tích hấp phụ bề mặt tại p/p2=0,15 là 0,849 m2/g; Vật liệu mang chế tạo từ đá thủy tinh M3 có diện tích bề mặt 726x103 m2/m3, thể tích rỗng 96,96% và khối lượng riêng 1,09 g/cm3. Vật liệu được chế tạo đều có tính hiệu dụng cao nhờ các đặc tính cao hơn so với các loại vật liệu hiện đang được sử dụng và bán trên thị trường.
Theo PGS.TS. Nguyễn Mạnh Khải: “Đề tài đã xây dựng được mô hình MBBR 0,5 m3/ngđ gồm hệ thống ba bể nối tiếp: bể thiếu khí, bể MBBR hiếu khí chứa XM biến tính hoặc TT với mật độ 30% thể tích để xử lý nước thải sau bể lắng sơ cấp của Nhà máy xử lý nước thải Kim Liên”.
Các chỉ tiêu của nước đầu ra của 2 hệ thống xử lý sử dụng vật liệu mang XM và TT quy mô phòng thí nghiệm cho kết quả phân tích luôn đạt tiêu chuẩn xả thải ra môi trường theo QCVN 14:2008/BTNMT cột B. Các nhóm vi sinh vật phát triển tốt trong hệ thống MBBR cho thấy có sự tương đồng với vi sinh vật trên vật liệu mang, có khả năng xử lý chất hữu cơ dễ phân hủy, gây bệnh, hay có khả năng chuyển hóa kim loại nặng, thậm chí có loài còn được biết đến có khả năng thích nghi trong điều kiện khắc nghiệt.
Tại Việt Nam, hầu hết các loại vật liệu mang được sử dụng trong công nghệ giá thể mang màng vi sinh chuyển động (MBBR) đa phần đều được nhập khẩu, có khả năng xử lý khá hiệu quả, nhưng giá thành cao. Vì vậy, với những kết quả mà nhóm nghiên cứu mang lại sẽ góp phần tự chủ nguồn cung ứng loại vật liệu này. 
Phương Loan
Tổng số lượt truy cập :
  • 1
  • 0
  • 3
  • 8
  • 2
  • 7
  • 7
  • 5
lên đầu trang