Thứ bảy, 20/04/2024 | 11:06
Đề tài nhằm duy trì và phát triển nguồn gen vi sinh vật hiện có nhằm tạo cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển công nghệ sinh học của đất nước.
Đề tài nhằm giới thiệu kết quả nghiên cứu, khảo sát, thu thập, bảo tồn và lưu giữ nguồn gen công nghiệp thực phẩm. Đồng thời, đánh giá nguồn gen và xây dựng cơ sở dữ liệu bảo tồn nguồn gen này.
Đề tài nghiên cứu của Viện Công nghiệp Thực phẩm đã giúp các doanh nghiệp chế biến nước mắm có được các sản phẩm chất lượng cao bằng công nghệ sinh học.
Công nghệ sinh học đang là xu thế của thế giới, là động lực quan trọng để thực hiện quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống nhân dân...
Tính đến hết năm 2022, Viện Nghiên cứu Dầu và Cây có dầu thu thập, đánh giá và bảo tồn 518 nguồn gen cây nguyên liệu dầu, trong đó gồm có 51 mẫu giống cây dừa, 3 mẫu giống cây phi long, 86 mẫu giống cây jatropha, 177 mẫu giống lạc, 91 mẫu giống vừng, 110 mẫu giống đậu tương. Bài viết này đánh giá một số nguồn gen cây một số cây nguyên liệu dầu.
Ngày nay, với sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật cùng với nhu cầu cuộc sống ngày càng nâng cao, vấn đề sức khỏe của con người cũng như vật nuôi ngày càng được chú trọng hơn, việc tiêu thụ các sản phẩm có chất lượng cao và mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe đang rất được người tiêu dùng quan tâm.
Từ những năm 1995, các nghiên cứu trong nước mới chỉ tập trung vào phân lập và xác định tính chất các enzyme thuộc nhóm thuỷ phân của các chủng vi khuẩn nuôi cấy được từ suối nước nóng Bình Châu, do đó chưa đánh giá được hết tiềm năng của vi sinh vật trong suối nước nóng này.
Năng lực công nghệ sinh học của Việt Nam vẫn còn khiêm tốn so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Nhận diện các điểm nghẽn là bước đầu tiên, quan trọng trong lộ trình kiến thiết nền công nghiệp sinh học nước nhà.
Collagen từ lâu đã được sử dụng rộng rãi trong các ứng dụng y sinh. Tuy nhiên, hầu hết các sản phẩm phổ biến trên thị trường đều có nguồn gốc từ động vật có vú như lợn, bò và cừu.
The lignin content which is separated during the pretreatment process is 44.5%. The efficiency of lignin recovery process after the pretreatment process is 65.76%.
Theo Ban Thư ký Cộng đồng Thái Bình Dương (2014), phụ phẩm từ quy trình chế biến cá ngừ phi lê là 50% so với nguyên liệu, bao gồm 18% đầu cá, 14% da và thịt còn sót lại, 8% xương, 2% vây và 8% mang và nội tạng.
Nghiên cứu công nghệ ứng dụng enzyme trong sản xuất collagen từ nguồn sứa biển Việt Nam có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu ra thế giới.
Nghiên cứu được thực hiện trong điều kiện in vitro nhằm đánh giá sự ảnh hưởng của các yếu tố môi trường lên hoạt tính enzyme protease của vi khuẩn Streptomyces DH3.4.
(ĐCSVN) – Nghiên cứu công nghệ ứng dụng enzyme trong sản xuất collagen từ nguồn sứa biển Việt Nam có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu ra thế giới.
Các nhà nghiên cứu từ Đại học Bang Washington đã thiết kế các chủng vi khuẩn đất cố định đạm phổ biến ở khắp nơi Azotobacter vinelandii để sản xuất amoniac và bài tiết ở nồng độ cao, chuyển NH3 vào cây trồng thay cho phân bón hóa học thông thường.
Dù bia không cồn có một số ưu điểm vượt trội hơn bia truyền thống, nhưng nhiều người cho rằng hương vị vẫn không ngon bằng. Các nhà khoa học Đan Mạch hiện nay đã khắc phục được hạn chế đó bằng cách sử dụng men làm bánh biến đổi gen.
Từ nguồn vảy cá nước ngọt thu được từ các chợ dân sinh, TS. Nguyễn Thúy Chinh và các cộng sự tại Viện Kỹ thuật nhiệt đới đã tách chiết và thu được collagen sạch, an toàn làm nguồn vật liệu đầu giúp cầm máu vết thương, tái tạo mô và bào chế thuốc hỗ trợ điều trị bệnh gout.
Bộ Công Thương đã nghiệm thu đề tài “Nghiên cứu công nghệ ứng dụng enzyme trong sản xuất collagen từ nguồn lợi sứa biển Việt Nam”.
Các nhà nghiên cứu thuộc Viện Tài nguyên và Môi trường biển (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) đã hoàn thiện quy trình công nghệ và sản xuất thành công collagen có độ tinh khiết trên 80% từ vật liệu sứa biển.
Sau 2 năm nghiên cứu Trường Cao đẳng Công nghiệp thực phẩm đã xây dựng được quy trình công nghệ tách chiết, thu nhận axit chlorogenic từ hạt cà phê xanh.